Tổ Quốc -Danh Dự -Trách Nhiệm

Nam Nhân- Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Friday, January 16, 2009

Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan 1-2( Lien Thanh)




Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan

Liên Thành


Thế nhưng, có một người –mặc dầu thân sinh là người miền Bắc– nhưng được sinh ra tại Huế, lớn lên tại Huế, rời khỏi Huế từ độ quê hương chìm đắm trong binh lửa. Nhưng mỗi khi Huế gặp nạn, dân Huế gặp nạn, người ấy lại trở về Huế với tấm chân tình và lòng thiết tha cứu Huế và giúp đồng bào Huế.


Sáng hôm nay ngồì viết những dòng chữ này mà lòng không nén nổi xúc động. Tưởng nhớ đến người anh cả trong lực lượng Cảnh sát Quốc gia (CSQG), tôi muôn đời thương tiếc và kính trọng ông.


Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Bây giờ đã đi khuất, không còn trong cuộc đời phiền muộn này nữa, nhưng ông đã để lại tiếng tốt muôn đời, để lại sự kính trọng, và lòng biết ơn của rất nhiều người dân Huế.

Ông là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Lực Lượng CSQG (1966 – tháng 5/1968).


Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 01/02/1930 tại Huế. Tốt nghiệp khóa 1 trường Võ bị Thủ Đức.


– 1953 học khóa hàng không (École de l’air (EA) – DCVOnline) tại trường Sĩ quan Không quân (Ecoles d’Officiers de l’Armée de l’Air, EOAA – DCVOnline) Salon de Provencce tại Pháp, tốt nghiệp Kỹ Sư Hàng không. Ông là một trong những phi công lái khu trục cơ đầu tiên của VNCH.


– 1960 giữ chức vụ CHT Phi đoàn 2 Quan sát tại Nha Trang.


– 1964 vinh thăng Đại Tá, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH.


Ngày 11/02/1965, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan đã dẫn đầu những phi đoàn A1 Skyraider vượt vỹ tuyến 17 oanh tạc miền Bắc Việt Nam trong chiến dịch Mũi Tên Lửa II (Flamming Dart II)(1)


Chưa bao giờ trong cuộc chiến đầy bi thảm của quê hương mà lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu chống Cộng sản của dân quân Trị Thiên lại lên cao như vậy. Dân chúng, học sinh, sinh viên Huế đã tổ chức biểu tình lớn để hoan hô những nguởi hùng không quân VNCH, những Kinh Kha thời đại, đã vượt sông Gianh xông vào đất địch, và họ đã được đồng bào trân trọng vinh danh.


Tôi bấy giờ chỉ là viên sĩ quan trẻ, cấp Thiếu úy, tôi được biết tên ông từ dạo đó.


Sau cuộc hành quân Mũi Tên Lửa 11/02/65, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm về làm Tổng Giám Đốc CSQG, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, Giám đốc Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.


Tháng 3, 1966 miền Trung Huế dậy sóng, biến động lớn xẩy ra vì tham vọng, điên cuồng, bất chấp vận mệnh quốc gia, dân tộc, say mê quyền lực của Thượng toạ Thích Trí Quang, một tu sĩ khao khát làm “Quốc Trưởng”, “Quốc Phụ”, sau khi phá đổ được chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, qua phong trào Phật Giáo Tranh Đấu biểu tình làm tê liệt chính quyền, dẫn đến cuộc đảo chánh 01/11/1963. Say men chiến thắng, ngỡ mình là “anh hùng cái thế”, nhà sư Trí Quang liên tiếp khống chế, gây bất ổn chính trị cho đất nước.


Với sự nhượng bộ của Mỹ, nhà sư Trí Quang liên tục thay đổi điều hành các “triều đại” theo ý mình, qua quyền lực đen của các cuộc biểu tình, xuống đường của các Phật Tử tranh đấu. Từ thời đại Dương Văn Minh, đến Nguyễn Khánh, qua tam dầu chế Khánh-Minh-Khiêm, đến thời chính phủ Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, và cả thời gian đầu của chính quyền quân nhân Thiệu-Kỳ, tất cả đêu bị Thượng toạ Trí Quang thao túng, sắp đặt nhân sự.


Đến khi hành động của Thượng toạ Trí Quang vượt quá sự chịu đựng của chính quyền Johnson, và đất nước trên bờ vực thẳm để cho CS thôn tính, các tướng lãnh phẫn nộ, thì Henry Cabot Logde không thể nào nghe lời và chiều chuộng Trí Quang được nữa.


Bị phía Mỹ từ chối không ủng hộ, từ Sài Gòn, nhà sư Thích Trí Quang bay ra Huế cùng đám cán bộ cộng sản nằm vùng quá lâu trong Phật giáo – như các TT Đôn Hậu, Chánh Trực, Thiện Siêu, và nhóm Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Phan duy Nhân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, v.v... với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam qua Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan – mưu đồ biến miền Trung thành một vùng trái độn, và âm mưu biến Kinh đô Huế ngày xưa sẽ là thủ đô của MTGP Miền Nam.


Cuộc biến động xẩy ra từ tháng 3, 1966 kéo dài trong 100 ngày. Tình hình rối lọan từng giờ, từng ngày, công sở của chính quyền bị đám phản loạn chiếm giữ, cơ sở ngoại giao đoàn bị đốt phá, quân đội, công chức, cảnh sát, ngả theo đám tranh đấu. Thành phố không còn chính quyền, không còn luật pháp quốc gia, đám tranh đấu muốn vu khống, muốn đánh đập, muốn bắt bớ ai tùy thích. Dân chúng Huế kinh hoàng hỗn loạn, đời sống mỗi ngày mỗi cơ cực, họ sống trong niềm tuyệt vọng, buồn thảm nhìn tương lai vô định.

Chính phủ Trung Ương đã liên tục cử ra miền Trung bốn vị tướng lãnh với chức Tư lệnh Quân đoàn để ổn định tình hình miền Trung, nhưng tình hình vẫn mỗi ngày mỗi rối loạn thêm, họ bất lực bó tay. Từ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi phải ngả theo ông Thích Trí Quang chống lại chính phủ Trung ương, đến Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, rồi đến Trung Tướng Tôn Thất Đính, ông này hoảng sợ ông Trí Quang và phong trào tranh đấu phải chạy trốn vào Bộ tư lê/n (BTL) Sư đoàn Thủ quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ tại Đà Nẵng xin tỵ nạn, rồi đến Thiếu tướng Huỳnh văn Cao. Thiếu Tướng Cao đã bị Viên Trung úy Sư Đoàn I Bộ binh (BB) ly khai Nguyễn Đại Thức bắn, cũng may ông không bị trúng đạn và cuối cùng Thiếu Tướng Cao cũng vào xin tỵ nạn tại BTL/TQLC Hoa Kỳ tại Đà Nẵng.


Với tình hình rối loạn và hầu như tuyệt vọng tại miền Trung như vậy, bốn Tướng đã bỏ chạy, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG được Chính phủ giao trọng trách ổn định và tái lập an ninh trật tự tại miền Trung, đặc biệt là Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế.


Theo Đại tá Trần Minh Công, cựu Viện trưởng Học viện CSQG/ VNCH, (lúc đó Đại tá Công là một sĩ quan trẻ của lực lượng CSQG cùng đi với Đại tá Loan ra Đà Nẵng) thì lực lượng của BCH hành quân dẹp loạn của Đại Tá Loan gồm có Chiến đoàn TQLC/VNCH, được tăng phái thêm một tiểu đoàn Nhảy Dù/VNCH, lực lượng hành quân được không vận ra Đà Nẵng đã phải ở trong phi trường mất hai ngày mà không thể tung quân ra được vì Đại tá Loan muốn tránh một cuộc đổ máu xẩy ra. Lý do là Trung đoàn 51 BB/VNCH ly khai đang bố trí và sẵn sàng tấn công lực lượng của Đại tá Loan, đấy là chưa nói đến bên cạnh Trung Đoàn 51 BB ly khai còn có tiểu đoàn 11 Biệt động quân (BĐQ) của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu cũng đã hợp tác với lực lượng tranh đấu tại Đà Nẵng.


Thiếu Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đã bay ra Đà Nẵng họp cùng Đại Tá Loan. Ông Kỳ có ý định cho chiến đấu cơ của Không quân VNCH cất cánh nhắm vào BCH của Trung đoàn 51 BB ly khai, chỉ mục đích cảnh cáo, nhưng gặp ngay phản ứng về phía Chính Phủ Hoa Kỳ. Tư lệnh lực lượng TQLC/Hoa Kỳ tại Đà Nẵng, Trung Tướng Walt (2), đã gởi một thông điệp cho Thiếu Tướng Kỳ, “Nếu chiến đấu cơ của Không quân VNCH cất cánh, ông ta sẽ cho chiến đấu cơ Hoa Kỳ cất cánh ngăn chận, bắn hạ ngay.”


Được hỏi lý do tại sao? Theo ông Trần Minh Công thì Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan cho rằng có lẽ Hoa Kỳ đã buộc Chính phủ VNCH phải chấp nhận một số điều kiện nào đó của họ thì họ mới chịu để yên cho Chính phủ VNCH ra tay dẹp đám phản loạn Thích Trí Quang, và câu kết luận chua xót của ông Trần Minh Công, “Thật tình không hiểu nổi đây là loại đồng minh kiểu gì!”


Cũng theo ông Trần Minh Công, lúc bấy giờ tình hình tại Đà Nẵng rất căng thẳng, nguy hiểm, và đầy bất trắc. Có thể đánh nhau lớn trong thành phố Đà Nẵng giữa lực lượng hành quân dẹp loạn của Đại Tá Loan gồm TQLC, Nhảy Dù VNCH, và quân đội ly khai.


Lực lượng ly khai gồm có Trung Đoàn 51 BB, Tiểu Đoàn 11/BĐQ của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu, cùng với đám tranh đấu ô hợp, nhưng sắt máu, cuồng tín, mà đại đa số là cơ sở Việt Cộng thuộc 2 Đại Đội SV Phật Tử Quyết Tử do chính SV Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, từ Huế vào Đà Nẵng tăng cuờng cho lực lượng tranh đấu tại chùa Tỉnh hội Đà Nẵng; tất cả đã được trang bị vũ khí.


Để tránh đổ máu giữa phe mình đánh phe ta, Đại Tá Loan đã dùng những người bạn thân của Đại úy Nguyễn Thừa Dzu bí mật tiếp xúc và chiêu dụ đại úy Dzu trở về với chính phủ. BĐQ là một trong những binh chủng thiện chiến nhất của QLVNCH, Tiểu đoàn BĐ của Đại úy Dzu lại đang chiếm giữ thành phố Đà Nẵng, không chiêu dụ được tiểu đoàn này thì đại họa sẽ xẩy ra. Người phụ trách công tác chiêu dụ Đại úy Nguyễn Thừa Du là Đại Úy Nguyễn Tự Cường.


Đại úy Nguyễn Tự Cường xuất thân Khóa 7 Võ bị Đà Lạt. Ông là chuyên viên tình báo phụ trách tình báo hải ngọai vùng Bắc Lào. Sau đảo chánh 1963, ông bị bắt giữ và giam tại Cục An Ninh Quân Đội.


Ông kể lại với người viết, “Sau đảo chánh 1963, anh bị bắt vì là người của Cậu Cẩn. Tù một năm được thả ra, đói quá, mấy thằng Mỹ trả tiền và xúi dại anh tham gia đảo chánh, chỉnh lý lung tung, lại bị An Ninh Quân đội bắt lại, lần này bị giam gần 2 năm.”


Đang ở tù thì bỗng cửa tù mở ra, được dẫn đi trình diện ông “Sáu Lèo”, anh đâu biết Sáu Lèo là ai, hỏi viên Sĩ quan đi theo thì mới biết là Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan Cục Trưởng Cục ANQĐ, và cuộc gặp mặt với anh Sáu Lèo xẩy ra như sau.


– Đ... Cụ anh, làm cái gì mà tham gia đảo chánh lung tung để phải ngồi tù.

– Thưa Đại tá, em làm gì đâu, sau đảo chánh 1963 em bị bắt vì tội người của Ông Cậu. Một năm sau được thả ra, đói quá tham gia chỉnh lý kiếm tí tiền còm.

– Mày quen Nguyễn Thừa Dzu không?

– Bạn thân .
– Nó theo đám tranh đấu, Tiểu đoàn 11/BĐQ của nó đang chiếm thị xã Đà Nẵng. Mày ra Đà Nẵng dụ nó trở về được không?
– Em làm được.
– Làm được, cho làm lớn, còn không thì về lại Cục ở tù tiếp.
– Trình Đại tá, làm được nhưng phải có điều kiện.
– Điều kiện gì?
– Trước khi đi Đà Nẵng, Đại tá phải cho em truy lãnh 3 năm lương. “Có thực mới vực được đạo”. Bạch hóa hồ sơ, không ghi vào quân bạ. Đại tá làm được hai chuyện đó thì em đi Đà Nẵng dụ thằng Dzu, còn không em vào tù tiếp, không đi.
– Được.

Đại úy Cường đã gặp Đại úy Nguyễn Thừa Dzu, và kết quả là Đại úy Dzu rút Tiểu Đoàn 11/BĐQ ra khỏi thành phố Đà Nẵng, tránh được cuộc đổ máu không cần thiết.


Đại úy Nguyễn Tự Cường ngay sau đó đã được Đại tá Loan bổ nhiệm làm Trưởng ty An Ninh Quân đội thị xã Đà Nẵng (1966-1975), Ông và Đại tá Loan tính tình có nhiều điểm hợp nhau.


Trung Tá Nguyễn Tự Cường cũng đã theo Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đi vào miền vĩnh cửu vào tháng 12/2007 tại Nam Cali.


Phần Đại úy Nguyễn Thừa Dzu, ông theo Đại Tá Loan dẹp xong vụ biến động miền Trung, về Sài Gòn và được Đại tá Loan bổ nhiệm đi làm Trưởng Ty CSQG một trong những quận tại Chợ Lớn.


Tuy vậy, súng đã nổ và đã có người chết. Khi ông Trần Minh Công tiến quân vào Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, ông đã phát giác có mười mấy xác chết đã sình thối trong nhà kho của chùa, và chính ông cùng nhân viên thuộc quyền đã vác những thi hài sinh thối này ra xe đem chôn.


Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã ổn định được tình hình tại Thị xã Đà Nẵng, ông rời Đà Nẵng ra Huế tiếp tục nhiệm vụ nặng nề đầy hiểm nguy là dẹp lọan tại Huế mà chính phủ đã giao trọng trách này cho ông. Người tiếp tục ổn định tình hình an ninh trật tự tại Đà Nẵng là Quận trưởng Cảnh sát Trần Minh Công, tân Trưởng Ty CSQG thị xã Đà Nẵng, người mà Đại Tá Loan tin cậy vào tài năng, và lòng dũng cảm.


Quận Trưởng Cảnh Sát Trần Minh Công đã hoàn tất nhiệm vụ mà Đại tá Loan giao phó. Đó là một nhiệm vụ nặng nề, tiếp tục ổn định tình hình rối loạn. Chỉ một năm sau, tình hình Đà Nẵng đã hoàn toàn ổn định. Đại Tá Loan lại thuyên chuyển ông vào Sài Gòn giữ chức vụ Trưởng Ty CSQG Quận II, Thủ đô Sài Gòn, để rồi Mậu Thân 1968, trong 2 đợt tổng công kích của VC vào Sài Gòn, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và Quận trưởng Trần Minh Công lại sát cánh cùng nhau tung lực lượng CSQG phản công ngăn chận 2 đợt tấn công của VC vào Sài Gòn ngay những giờ phút đầu tiên.

₪₪₪



Tướng Loan dẹp loạn miền Trung

Ngày 08/06/1966 Biệt Đoàn 222 Cảnh sát Dã chiến thuộc BTL/CSQG do Trung tá Phan Huy Sảnh chỉ huy đổ quân chiếm ty CSQG Thị xã Huế.


Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và bộ tham mưu hành quân dẹp lọan đến Huế vào ngày 9/6/1966. Lực lượng hành quân chiếm lại Tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Đại Tá Loan đặt BCH hành quân tại đó. Tôi trình diện Đại tá Loan nhận công tác. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông.

Huế lúc bấy giờ hoàn toàn nằm trong tay Thích Trí Quang và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam qua Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành ủy Huế,; Nhóm này định biến Huế thành vùng trái độn. Chiến trường Huế đã mở, mặt trận Tri-Thiên-Huế vừa chính trị vừa quân sự sẽ cam go, nguy hiểm và đầy bất trắc đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan nhảy vào thử lửa.


Dọc dãy Trường Sơn, cạnh sườn Thừa Thiên-Huế, lực lượng quân sự của Hà Nội, Sư Đoàn 324B thuộc Quân Khu Trị Thiên đang ém quân chờ đợi biến cố lớn xẩy ra tại thành phố Huế là xua đại quân bôn tập tấn công và chiếm Huế. Nếu Đại tá Nguyễn Ngọc Loan không kịp thời cứu Huế, có lẽ Huế đã mất vào tay Cộng sản mà không cần phải đợi đến Mậu Thân 1968.


Tại thành phố Huế, Sư Đoàn I/BB là một trong những đơn vị tinh nhuệ nhất của QLVNCH và dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, có thể nói một số lớn các đơn vị của Sư Đoàn này cùng với Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đã ly khai với chính phủ trung ương, phục vụ cho mưu đồ đen tối và mộng tranh bá đồ vương của Thích Trí Quang đang chờ đợi Đại Tá Loan.


Thích Trí Quang và lực lượng tranh đấu của tu sĩ Phật giáo này còn có 4 đại đội sinh viên Quyết tử do Nguyễn Đắc Xuân sinh viên Sư phạm Hán Việt chỉ huy. Bốn đại đội này đã được Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đưa vào TTHL/Văn Thánh của Sư Đoàn I/BB huấn luyện quân sự, và trang bị vũ khí. Nhóm tu sĩ và phật tử này phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội ly khai cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan.


Và các liên đoàn Công chức Phật Tử, giáo chức Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử của các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, lực lượng này khoảng vài chục ngàn nguời.


Hai phong trào quần chúng đấu tranh do tên Trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan thành lập cũng đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đó là:


– Phong trào Sinh Viên Tranh Thủ Hòa Bình do sinh viên Y Khoa Đại học Huế Tôn Thất Kỳ Chỉ huy.


– Phong trào SV Tranh thủ Dân Chủ do sinh Luật Khoa Nguyễn Hữu Giao Chỉ huy.


Đau lòng và nghiệt ngã nhất là lực lượng CSQG Phật Tử thuộc Ty Cảnh Sát quốc Gia Thừa Thiên và Thị xã Huế dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan cũng đã nghe lời quyến rũ của Thích Trí Quang, Hoàng Kim Loan quay lại chống ông. Lực lượng CSQG Thừa Thiên và Thị xã Huế gồm khoảng trên 5 ngàn sĩ quan và cảnh sát viên.


Thuộc cấp theo giặc, làm loạn, thật bất hạnh cho Đại Tá Loan và lực lượng CSQG/VNCH.


Và cuối cùng hai viên Tư Lệnh của Phong trào tranh đấu đang chờ đợi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan trong trận thư hùng một còn một mất này là Thích Trí Quang và Điệp viên của Hà Nội Trung Tá Hoàng Kim Loan.


Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, một anh hùng hào kiệt của binh chủng Không quân VNCH, một hiệp sĩ Kinh Kha của thời đại, đã vượt sông Gianh Bắc phạt, trong chiến dịch “Mũi Tên Lửa”, giờ đây tháng 6/1966, Kinh Kha đang trực diện với chiến trường cay nghiệt. Ông sẽ nhảy vào chiến trường này, chỉ huy trận đánh này, trận đánh sẽ còn cam go hơn khi dẫn đầu Phi Đoàn Không Quân VNCH lao mình vào đất giặc.


Thích trí Quang và Hoàng Kim Loan đã dùng niềm tin tôn giáo của 80% dân chúng Huế để gài Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan vào chiếc bẫy sập này, và nỗi khó khăn của ông là một số lớn dân chúng Huế lúc bấy giờ đã vì cuồng tín nghe theo lời Thích trí Quang, không phân biệt được lý lẽ đúng sai.


Bàn thờ Phật đã xuống đường.


Thắng trận đánh này chưa hẳn là một vinh quang, nhưng bại trận đánh này là một báo hiệu đầu hàng sớm hơn ngày 30/04/75 của dân chúng miền Nam Việt Nam, của chính phủ VNCH trước sự xâm lăng của Cộng Sản Hà Nội, và chính ngay bản thân ông, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, đời binh nghiệp của ông, sẽ giống như số phận của 5 tướng Thi, Nhuận, Chuân, Đính, Cao.


Thế nhưng, thật không hổ danh anh “Sáu Lèo”, Đại tá Loan đến Huế trực diện với một lực lượng phản loạn to lón và hùng hậu như vậy, ông can đảm, bình tĩnh nhảy vào chiến trường khắc nghiệt và cam go này.


Và ông đã chế ngự được và dẹp tan đám phản lọan với thành quả:
– Không có đổ máu xảy ra.

– Thu hồi Sư Đoàn I/BB lại cho quân lực. Giao Sư Đoàn I/BB cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng Tham Mưu trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH chỉ huy và chỉnh đốn lại.

– Thâu hồi lại Huế cho chính Phủ Trung Ương từ tay Thích Trí Quang, và Trung tá Điệp viên Hà Nội Hoàng Kim Loan.

– Bắt giữ Thích Trí Quang
– Bắt giữ Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận

– Bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi

– Và khoảng trên một ngàn các thành phần tranh đấu chủ chốt, vừa dân sự và quân sự bị bắt đem vào Cục ANQĐ và BTL/CSQG xét sử.

– Thanh lý môn hộ và tái tổ chức gia đình CSQG tại BCH/CSQG Thừa Thiên Huế. Điều quan trọng nhất là đem lại bình yên và ổn định cho đời sống đồng bào Thừa Thiên-Huế.


Bốn tướng lãnh đã chào thua với tình hình rối lọan, bỏ mặc dân chúng Huế sống trong cảnh kinh hoàng, lo sợ trong sự áp bức, khủng bố của đám vệ binh đỏ Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, những phần tử thân cận của Thích Trí Quang, những cơ sở nội thành nòng cốt của Thành ủy viên Việt Cộng Hoàng Kim Loan. Huế vô chính phủ, không còn luật pháp quốc gia, mà chỉ có luật rừng của đám giặc cỏ này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh CSQG, đã giải thoát đồng bào Huế khỏi cơn tai ương của đám giặc cỏ, tái lập lại luật pháp quốc gia, trật tự an ninh công công.


Ngày tôi đưa ông và BTM/Hành quân của ông xuống phi trường Phú Bài về lại Sài Gòn, tôi còn nhớ ông dặn tôi:

– Mày cẩn thận lo giữ mình, bọn nó không tha mày đâu.


Tôi trả lời ông:


– Dạ.


Ông nói tiếp:


– Bọn họ nói Đại tá và em là hai tên “Phản đạo” lật đổ bàn thờ Phật. Mày có buồn vì câu nói đó không?


– Không Đại Tá.


– Mình làm đúng, vì đó là bổn phận và trách nhiệm của minh. Ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì.


Sau này, trong chín năm chịu trách nhiệm an ninh, tình báo, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, mỗi khi có biến động lớn xẩy ra tại Huế, buộc phải có những quyết định và hành động cứng rắn với những thành phần, những phong trào phá rối, tạo nguy cơ cho Huế và cho đồng bào Huế, tôi vẫn thường nhớ đến câu nói của Đại Tá Loan, như một lời nhắn nhủ của ông đối với tôi, “Mình phải hành động vì đó là bổn phận và trách nhiệm của mình, ai muốn nói gì thì nói, để ý làm gì.”


(Còn tiếp)


DCVOnline: (1) Tháng Hai, 1965 Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson ra lệnh tấn công quân CSVN bằng phi cơ oanh tạc. Flaming Dart I (07 tháng 2, 1965) gồm 44 phi vụ nhằm vào Đồng Hới trả đũa việc cộng sản Việt Nam (quân của MTGPMN) rót súng cối vào căn cứ Holloway gần Pleiku làm thiệt mạng 8 và 100 binh sĩ Mỹ bị thương. Chiến dịch Flaming Dart II để trả lời cuộc tấn công 3 ngày sau ở 1 căn cứ Mỹ tại Quy Nhơn giết 23 và làm bị thương 22 binh sĩ khác. Flaming Dart II gồm 99 phi vụ vào khu quân dụng và truyền thông của cộng sản gần vùng phi quân sự.

(2) Lewis W. Walt thăng Trung tướng tháng Năm 1965, nhận trách nhiệm Chỉ huy TQLC và Tư lệnh Sư đoàn 3 TQLC tại Việt Nam đồng thời là chỉ huy trưởng Hải quân và Cố vấn cao cấp ta vùng I chiến thuật. (Nguồn:
Lewis William Walt)

Vai trò của Tướng Walt trong cuộc khủng hoảng 1966 ở Đà Nẵng

Tướng Kỳ cho rằng lãnh tụ Phật giáo miền Trung là những kẻ phản bội muốn lật đổ chính phủ của ông. Kỳ coi Nguyễn Chánh Thi , Tư lệnh Vùng I, là tướng có “khuynh hướng thiên tả” (Nguyen Cao Ky, Twenty Years and Twenty Days; NY: Stein and Day, 1976, trang 87-89. Chương 8, trang 87-100.) và giải nhiệm tướng Thi vào 10 tháng 3, 1966 khiến cuộc khủng hoảng bùng phát.

Nguyễn Chánh Thi là người theo Phật giáo, một sĩ quan thao lược và được khối Phật giáo ở Vùng I ưa chuộng và ủng hộ. Phe tướng Thiệu-Kỳ, được sự ủng hộ của Đại sứ Lodge, Tướng Westmoreland, và Bộ trưởng McNamara, xem tướng Thi là đối thủ chính tri. Đồng minh duy nhất của tươ;ng Thi là Tướng Lewis W. Walt.
(Lewis W. Walt, Strange War, Strange Strategy NY: Funk & Wagnals, 1970, trang. 114. Chương 10 & 11, trang 113-136).

Cuối tháng 3, Tướng Thi trở lại Đà Nẵng và được khối Phật giáo chống đối chào đón nồng nhiệt ở đây và tại Huế.

Ngày 4 tháng 4, 1966 Tướng Kỳ gởi 3 sư đoàn TQLC đến Đà Nẵng. Lực lượng TQLC đóng quân tại căn cứ không quân và không tiến chiếm lại Đà Nẵng từ nhóm phiến loạn.

Ngày 9 tháng 4, 1966 tình hình lại căng thẳng hơn khi Đại tá Đàm Quang Yêu (Tiểu khu trưởng tiểu khu Quảng Đà) thuộc nhóm Phật giáo chống đối đưa bộ binh, xe bọc sắt, và trọng pháo Từ Hội An vào Đà Nẵng.

Tư lệnh sư đoàn 3 TQLC Mỹ lúc đó là Trung tướng Wood Kyle, ra lệnh cho Trung đoàn 9 TQLC chận đoàn quân của ĐT Yêu trên quốc lộ số 1. Bị chận đường, Đại tá Yêu ra lệnh cho trọng pháo 155 ly quay về hướng phi trường, cùng lúc một phi đoàn chiến đấu cơ của Không quân Việt Nam bay vòng quanh vùng trú quân của TQLC Mỹ. Tướng Walt cử Đại tá John R. Chaisson để cảnh cáo Đại tá Yêu không được tiến xa hơn nữa. Để bảo kê cho quyết định đó, một phi đoàn F-8E của TQLC Mỹ trang bị hoả tiễn và bom bay quanh vùng đoàn quân của Đại tá Yêu. Tướng Walt cũng ra lện cho TQLC Mỹ quay mũi súng 155 và 205 ly (Jack Shulimson, U.S. Marines in Vietnam: An Expanding War, 1966, Washington, D.C.: History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marine Corps, 1982), trang 74.) về hướng quân VNCH. Tướng Walt nằm giữa hai “lằn đạn” của VNCH và khối Phật giáo ly khai.

Đại tá Yêu nói với Đại tá Chaisson ông là bạn của TQLC Mỹ như (theo U.S. Marines in Vietnam: An Expanding War, 1966, của Jack Shulimson) thì, “ông ta phải đến đương đầu với đoàn quân từ Sài Gòn đang đe dọa dân ở địa phương. Và ông ta sẵn sàng chết nếu cần, ...”

Đại tá Chaisson cảnh báo với Đại tá Yêu là đoàn quân của ông sẽ bị tiêu diệt nếu nổ súng vào TQLC Mỹ. Tình hình từ từ lắng dịu trở lại. Đài phát thanh Đà Nẵng và Huế trở lại sự kiểm soát của chính phủ. Lực lượng TQLC trở lại Sài Gòn; quân đội VNCH Vùng I quay lại mặt trận chống cộng sản. Tướng Thi công khai tách khỏi nhóm chống đối.

Vẫn ngại nhóm Phật giáo miền Trung nổi dậy và chiếm lãnh toàn vùng, Tướng Kỳ

– không báo cho Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu hay – ra lệnh cho Tướng Cao Văn Viên, Tham mưu trưởng, đưa TQLC và Nhảy Dù từ Sài Gòn vào Đà Nẵng ngày 15 tháng Năm. Trung tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Vùng I, cũng ngạc nhiên như tướng Walt về cuộc đổ quân bất ngờ của tướng Kỳ – ông xin tị nạn tại bộ chỉ huy TQLC Mỹ để khỏi bị bắt.

Sáng này 15 tháng Năm hai phi cơ của không quân Việt Nam bắn vào những đơn vị VNCH gần khu TQLC Mỹ về phía Bắc Đà Nẵng. Sợ đổ máu, Tướng Walt yêu cầu quân VNCH rút khỏi Đà Nẵng. Tướng Kỳ từ chối rút quân. Ngày 16 tháng Năm, Tướng Kỳ thay tướng Đính bằng tướng Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh Vùng I.

Trong hồi ký của mình, Tướng Kỳ đã viết và tuyên bố nhiều chi tiết về khủng hoảng Phật giáo miền Trung 1966 cũng như những “chạm trán” với tướng Walt. Những tuyên bố đó không thấy Tướng Walt nhắc đến trong hồi ký của ông cũng như không được ghi lại trong biên niên lịch sử của TQLC Mỹ tại Việt Nam.


(Trích The 1966 Buddhist Crisis in South Vietnam, của Peter Brush đã đăng trên Vietnam Magazine số tháng Tư 2005. Đọc thêm chi tiết tại đây.)


Đọc thêm:
Gen. Nguyen Chanh Thi, 84, Seen as Hero in Vietnam, Dies, By DOUGLAS MARTIN, The New York Times, June 26, 2007


Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan (II)

Liên Thành


Luật pháp quốc gia, công ước quốc tế

Sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đang chỉ huy trận đánh khốc liệt tại khu vực Chợ Lớn, đường Sư Vạn Hạnh, thì một sĩ quan thuộc Chiến Đoàn TQLC/VNCH giải giao đến Thiếu tướng Loan tên Đại úy VC, Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp, mà Chiến đoàn TQLC vừa bắt được.

Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp chỉ huy đơn vị đặc công, trư ớc đó vài giờ đã giết hết gia đình của một sĩ quan CSQG gồm: Vợ, con và thân nhân của vị sĩ quan này. Sau đó y chỉ huy tấn công và kiểm soát trại Phù Đổng của binh chủng Thiết Giáp, Bảy Lốp bắt giữ gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn, dùng vợ con của Trung tá Tuấn áp lực và bắt Trung Tá Tuấn chỉ dẫn cách xử dụng xe tăng còn lại trong trại, Trung Tá Nguyễn Tuấn từ chối, Bảy Lốp đã giết chết toàn gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn, gồm cả bà mẹ già của Trung Tá Tuấn đã 80 tuổi, chỉ có một bé trai bị thương nặng và sau đó đã được cứu sống.

Trước đó y là thủ phạm đã giết chết 34 thường dân vô tội và là tác giả của mồ chôn tập thể 34 đồng bào này. y còn khai y rất hãnh diện về thành tích này.

Nhân chứng Nguyễn Trường Toại một thường dân đã kể, “Tôi biết hắn đã làm những gì, trong cuộc chạm súng với QLVNCH, hắn xử dụng trẻ em làm lá chắn, đẩy trẻ thơ vô tội làm bia đỡ đạn, QLVNCH không thể nổ súng, để cho đồng đội hắn tẩu thoát”.

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đã được báo cáo đầy đủ về tội trạng và hành động man rợ của tên VC này, và khi nhìn những xác chết của trẻ thơ vô tội, ông đã hỏi:

“Tại sao, chuyện gì vậy”, khi được biết tại sao, và ai là hung thủ, phải chịu trách nhiệm, Thiếu tướng Loan đã nổ súng, hạ sát tên thủ phạm Đại úy Đặc công Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp.

Bám sát theo theo BCH hành quân của Thiếu tướng Loan lúc đó là đám ký giả chiến truờng ngoại quốc, trong đó có nhiếp ảnh gia Eddie Adams của hãng thông tấn AP, và phóng viên quay phim cho hàng tin NBC người Việt Nam là ông Võ Sửu.

Tất cả diễn biến về việc Thiếu tướng Loan xử bắn tên đặc công Bảy Lốp đã được Võ Sửu và Eddie Adams thâu hết vào ống kính, Tướng Loan thấy rõ việc này, nếu muốn, ông có thể ra lệnh tịch thu hết các các cuốn phim, nhưng không, ông không làm như vậy, và ông đã nói với Eddie Adams cùng các ký giả ngọai quốc cũng như ông Võ Sửu lúc đó:

– Tên VC này đã giết vô số đồng bào của tôi và một số người Hoa Kỳ.

Và Eddie Adams kể lại

– Lúc đầu tôi tưởng Lém được dẫn đến để Tướng Loan thẩm vấn. Khi ông rút súng chĩa vào Lém, tôi vẫn còn tưởng ông chỉ dọa thôi, hóa ra, ông bắn thật.

Chuẩn tướng Loan bắn VC Nguyễn Văn Lém (Bảy Lốp) hay Lê Công Nà (Bảy Nà/Nè) tại Chợ Lớn (01/02/1968)
Nguồn: Photos của Eddie Adams/Vietnam: A Complete Photographic History by Michael Maclear, Hal Buell


Ngay tối hôm đó, mồng 2 Tết Mậu Thân, Eddie Adams đã chuyển bức hình Thiếu tướng Loan xử bắn tên đặc công Bảy Lốp từ Sài Gòn đi khắp thế giới. (3)

Cả thế giới rúng động, và đám ký giả ngọai quốc, các phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, Việt Nam, Âu Châu, và nhiều quốc gia khác, tận tình khai thác bức hình này.

Nó chính là bức hình oan nghiệt, đã đưa cuộc đời của Thiếu tướng Loan vào khúc quanh nghiệt ngã.

Tranh luận về bức hình, và hành động của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan: Đúng hay Sai .

Theo Thẩm phán Trần An Bài, giảng sư Học viện CSQG/VNCH:

Nhóm phản chiến Hoa Kỳ lý luận rằng: Đại úy đặc công VC đã bị bắt, hai tay bị trói về sau lưng, tức Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp đã thật sự trở thành tù binh chiến tranh. Tướng Loan không có quyền hành quyết một kẻ thù đã trở thành tù binh chiến tranh, không còn phương tiện tấn công. Hành động này trái với Điều 3 Quy Ước Geneva ngày 12/08/1949 về tù binh.

Phóng viên chiến trường của Úc Đại lợi, ký giả Neil Davids trong cuống “In the Frontline” đã bênh vực Thiếu tướng Loan, cho rằng:

Tên đặc công mặc áo dân sự, tức không phải quân nhân địch như đã qui định trong qui uớc Geneva về tù binh. Bảy Lém đã phạm tội quá rõ ràng là giết nhiều đàn bà con nít, và ngoan cố không chịu đầu hàng, Tướng Loan xử bắn một tên phản loạn trong thời gian Thiết Quân Luật thì cũng không có gì gọi là quá đáng.

Tướng William Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, đã nhận định về hành động của Thiếu tướng Loan:

Không khôn ngoan, nhưng Tướng Loan đã làm dưới áp lực. Vấn đề này liên quan đến pháp lý mà ông không thể phán đoán được. Ông chỉ muốn nhấn mạnh áp lực vào thời điểm đó, tức là sự giận dữ về những hành động khủng bố của Cộng Sản.

Và tấm hình đã đem lại oan nghiệt, cay đắng cho Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan; Eddie Adams đã nói là tấm hình của ông chỉ nói lên được một nửa sự thật. Ông đã ân hận, giải thích trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, để cảnh giác thế giới rằng họ đã hiểu lầm về ý nghĩa tấm hình của ông.

Tấm hình là cái bánh, một nửa cái bánh là sự thật, một nửa cái bánh kia là sự sai, sự gian xảo, sự lừa lọc và lầm lẫn. Thế mà cả thế giới nhắm mắt, bịt tai và im lặng, để cho Tướng Loan chết trong nỗi oan khiên, và VNCH chết tức tưởi trong nhục nh1n.

Vậy nửa sự thực kia là gì?

1. Không ai ghi lại được những hình ảnh mà Bảy Lốp đã bắn giết và chôn sống dã man những người dân vô tội mà Tướng Loan có trách nhiệm phải bảo vệ. Họ là đàn bà, con nít không có phương tiện tự vệ trong tay. Sự việc này cũng đã được Điều 4 qui ước Geneva ngăn cấm các quân nhân tham dự chiến tranh không được làm như vậy.

2. Cũng không ai diễn tả được cảnh Bắc Việt đã lợi dụng hưu chiến ngày Tết, tấn công VNCH, gieo bao nhiêu đau thương chết chóc cho dân chúng Nam Việt Nam.

3. Không ai ghi lại được cảnh hàng ngàn dân lành bị chôn sống tại Huế trong tết Mậu Thân, do tay các đồng chí của Bảy Lốp gây ra.

Tóm lại nửa sự thật không ai trình bày được là nguyên nh=C 3n dẫn đến nửa sự thật trong bức hình của Eddi Adams.

Nói cách khác, Tướng Loan nổ súng kết liễu đời Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp chỉ là hậu quả tất nhiên của chính việc làm của Bảy Lốp đã giết hại những người dân vô tội mà thôi.


Tranh luận về pháp lý

1. Bốn phe tham chiến tại Việt Nam chỉ có VNCH đã không hề ký kết vào bất cứ phần nào của Quy ước Geneva về tù binh và còn công khai bác bỏ vào ngày 18/02/1974.

Trong khi đó thì Hoa Kỳ ký vào ngày 2-8-1955.

Bắc Việt ký vào các năm 1953, 1957 và 1976

Mặt trận Giải Phóng Miền Nam ký vào 1973,1974

Như vậy thì làm sao có thể quy kết cho Chính phủ VNCH và Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đã vi phạm Quy ước này được.

2. Dù có phê chuẩn Quy =C 6ớc nhưng mỗi quốc gia lại tự giải thích Quy ước theo quan niệm và quyền lợi riêng tư của mình.

Hãy lấy ngay Bắc Việt và Hoa Kỳ làm bằng chứng.

Bắc Việt không tuân thủ quy ước dành cho tù binh Hoa Kỳ với lý do Hoa Kỳ đã mở cuộc chiến tranh đế quốc xâm lược Việt Nam, tức là cuộc chiến không có chính nghĩa, cho nên tù bimh Mỹ không đáng được hưởng những đặc ân của quy chế tù binh.

Hoa Kỳ lại cũng không cho binh lính BắcViệt và MTGPMN được hưởng quy ước, viện lý do là BắcViệt và Mặt Trận đã áp dụng những chiến thuật du kích quá dã man, không thích hợp cho một cuộc chiến quân sự, binh lính Bắc Vịêt và Mặt Trận bị bắt thật sự chỉ là những can phạm hình sự, chứ không phải đúng nghĩa là tù binh.

Giả nhC6 VNCH có ký vào quy ước Geneva, thì có thể giải thích rằng Nguyễn văn Lém không phải là tù binh chiến tranh và khi bị bắt, y không giao tranh với QLVNCH, mà lại đang lùng kiếm giết hại dân lành vô tội. Rõ ràng y là tội nhân hình sự chứ không phải là tù binh.

MTGPMN được khai sinh vào ngày 20/12/1960, với mục đích lật đổ chế độ chính trị miền Nam bằng bạo lực, và Bắc Việt luôn luôn chối bỏ là không hề tham dự vào các trận đánh ở miền Nam, và đó chỉ là chuyện riêng tư giữa nhân dân Miền Nam nổi dậy chống nhà cầm quyền của họ.

Nếu lập luận này là đúng, thì hai hậu quả được đặt ra cho vụ Tướng Loan:

Thứ nhất, Nguyễn văn Lém là một phần tử trong tổ chức nỗi loạn chống chính phủ miền Nam nên không phải áp dụn g quy chế Geneva, mà là luật lệ của VNCH.

Thứ hai, luật Pháp của VNCH thời đó đã đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật, nghĩa là các cán binh Cộng Sản chống lại VNCH bằng vũ lực, không còn được luật pháp bảo vệ như một công dân thường.

Nguyễn văn Lém là một phần tử trong tổ chức bị luật pháp đặt ra ngoài pháp luật, y lại còn bị bắt quả tang trong lúc phạm tôi hình nguy hiểm. Vậy thì Tướng Loan vị chỉ huy cao cấp nhất của ngành CSQG/VNCH, đang có mặt trên phạm trường có quyền thụ lý nội vụ và quyết định những biện pháp thích nghi.

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan đã hành xử đúng quyền hạn của ông, khi quyết định xử tử Nguyễn văn Lém ngay tại phạm trường, để chấm dứt tội ác của y. Quyết định của Tướn g Loan phải được gọi là hợp luật.

Và sau cùng luận về việc Thiếu tướng Loan xử tử Bảy Lốp có đúng thủ tục pháp lý và nhân đạo hay không?


Theo Thẩm phán Trần An Bài

Lý lẽ quan trọng nhất người ta thường nêu lên để trách cứ Tướng Loan là đã xử tử Nguyễn văn Lém tức Bảy Lốp mà không có án lệnh của tòa án.

Không, nguời ta đã lầm, lầm hoàn toàn.

Người ta đòi hỏi Nguyễn văn Lém phải được bắt giữ đúng thủ tục tư pháp? Và ai có quyền bắt giữ kẻ phạm pháp? Đó là cảnh sát. Nhưng chính cảnh sát lại là những người đang bị Bảy Lốp tìm giết, chẳng những giết cảnh sát, mà Bảy Lốp còn giết cả vợ con gia đình cảnh sát. Người ta còn đòi hỏi phải đem Bảy Lốp ra tòa án xét xử, còn tòa đâu mà xử, tòa án và các cơ sở công quyền là mục tiêu của Bảy Lốp và đồng chí của y đang chủ trương, đốt phá cho kỳ hết, và Thẩm Phán là những người mà Bảy Lốp đang tìm bắt để chôn sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc lửa đạn như vậy, mà còn đòi hỏi nào Quy ước, nào là cảnh sát Tư Pháp, nào là tòa án, nào là Thẩm phán. Tất cả những thứ đó Nguyễn văn Lém tự Bảy Lốp không cần, điều mà y thật sự cần là chấm dứt tội ác và đền tội.

Nguyễn văn Lém đã không mặc quân phục đội nón cối đi dép râu, để giao tranh với quân đội VNCH như các bộ đội Bắc Việt khác. Nguyễn văn Lém mặc thường phục, đi giết hại khủng bố đàn bà con nít để bắt họ=2 0làm bia đỡ đạn. Lém chẳng những đã không phủ nhận mà còn hãnh diện về các vụ giết và chôn sống đàn bà con nít của y.

Hành vi này kết thành tội sát nhân với trường hợp gia trọng, bắt buộc phải bị tử hình.

Phương cách thi hành bản án tử hình vẫn được áp dụng vào thời đó tại Việt Nam là tử tôi bị trói vào cột và một tiểu đội hành quyết nổ súng, sau đó viên tiểu đội trưởng đến gần bắn một phát súng ân huệ vào đầu tử tội để chắc chắn y đã chết.

Nguyễn văn Lém đã bị hành quyết đúng theo thủ tục:

Tử tội bị trói đem ra pháp trường, và hưởng phát súng hành quyết cũng chính là phát súng ân huệ của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG.


Th. T. Nguyễn Ngọc Loan đến Huế

QLVNCH và CSQG đã tiêu diệt hầu như toàn bộ các lực lượng VC tấn công Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam tạm yên. Nhưng Huế, mặt trận Huế vẫn còn khốc liệt, Công quân chiếm Huế 22 ngày, kể từ 2giờ 32 phút đêm mồng một Tết rạng ngày mồng 2 Tết, đến khuya ngày 22 Tết Mậu Thân, bọn chúng mới bắt đầu tháo chạy, và Huế thật sự ngưng tiếng súng vào sáng ngày 26 tháng giêng Âm lịch.

Huế trong cảnh đổ nát điêu tàn, Huế đầy xác người đã sình thối, Huế nhiều mồ chôn tập thể trong thành phố, Huế đói, Huế lạnh, Huế cơ cực, Huế có quá nhiều đồng bào Huế tỵ nạn ngay thành phố Huế, Huế có quá nhiều trại tỵ nạn và, trẻ thơ, góa phụ, ông bà già đang đói, đang run rẩy trong c1c trại tỵ nạn, vì trời Huế quá lạnh. Huế với những tiếng khóc tức tưởi, Huế với những tiếng nấc và giòng nước mặt nghẹn ngào của thiếu phụ, của cha, của mẹ, của anh, của em, của bạn bè gần xa, Huế với những tiếng thét kinh hoàng, thất thanh, vút tận trời xanh khi tìm ra thân xác thân nhân mình đã sình thối.

Huế sau 26 ngày bị VC chiếm đóng và tàn sát dân lành là thế đó, với 5327 thường dân vô tội bị tên sát nhân tàn bạo nhất thế kỷ là Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam của y sát hại, cùng với 1200 thường dân bị chúng bắt dẫn đi mất tích.

Huế trong tuyệt vọng thì Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư Lệnh CSQG đến Huế, cùng với những phi cơ C-130 của Không Quân VNCH, với những phẩm vật tiếp cứu kh=E 1n cấp cho đồng bào Huế.

Tôi đón ông tại Phi trường Phú Bài, vừa bước xuống cầu thang máy bay, ông đã nói:

– Tưởng mày bị bọn nó chôn sống rồi.
– Đâu dễ vậy Thiếu tướng, em là lính mà.

Trong khi chờ đợi bốc hàng khỏi máy bay, tại phòng khách danh dự của phi trường Phú bài, tôi trình với ông tất cả những diễn biến xẩy ra trong suốt 26 ngày qua. Ông nắm tình hình Huế rất vững, chính xác, có thể ngoài việc hằng ngày tôi báo trình vào BTL, ông còn hai hệ thống an ninh báo cáo cho ông, đó là Cục An Ninh Quân Đội và Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo.
Ông hỏi tôi:

– Hai thằng Cán, và Đoàn Công Lập mày bắt đã bắt chúng nó chưa?
– Quận Cán thì đã bắt rồi, nhưng Đoàn Công Lập thì chưa, vì ôn g ta đang còn là sếp của em và cũng chưa có lệnh của Thiếu tướng làm sao bắt được. Hơn nữa chuyện ông ta làm nội tuyến em đang bám sát, có bắt bây giờ cũng chưa đủ dữ kiện để truy tố ra tòa.
– Bao nhiêu anh em tử trận, bị thương.
– Trình Thiếu tướng, 150 người tử trận, bị thương nặng nhẹ gần 60 người.
– Số bị thương nằm ở đâu?
– Trình Thiếu tướng ở tại Bệnh viện Trung ương Huế
– Ngày mai đi thăm họ.

Tại BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, Thiếu tướng Loan đã có quyết định giao Quận trưởng Nguyễn văn Cán, nguyên Trưởng Ty CSQG Thị xã Huế, cho Trung tá Nguyễn Tự Cường, Trưởng ty ANQĐ Thị xã Đà Nẵng thụ lý, hoàn tất hồ sơ nội vụ trong thời hạn sớm nhất, truy tố ra Tòa Án Quân sự Mặt TrA Dn Vùng I, với tội danh hoạt động cho địch, tiếp tay với kẻ thù sát hại đồng bào và đồng đội trong thời gian Tết Mậu Thân, với bản án đề nghị: Tử hình – Và sẽ đem ra Huế hành quyết.

Về phía ông Đoàn Công Lập, Trưởng Ty CSQG Thừa Thiên-Huế, Tướng Loan, giải nhiệm chức vụ Trưởng Ty tại chỗ, bắt giữ đương sự với tội danh hèn nhát trước địch quân, bỏ trốn đơn vị khi tác chiến và tẩu tán tài sản quốc gia (hơn 400 vũ khí trong kho đã bị thất thoát). Ông Lập bị giải vào BTL/CSQG ngày 27/2/1968.

Cũng trong ngày 27/02/1968, trong khi thăm viếng và tặng một số phẩm vật cho đồng bào tỵ nạn như chăn, màn, thực phẩm, cho đồng bào tại các trại tỵ nạn ở các trường Trung và Tiểu học trong thành Phố Huế, tôi thấy nét mặt của ông đăm chiêu và buồn bã, bất chợt ông nói với tôi:

– Thật quá tội, tình hình đã tạm ổn sao họ chưa về nhà?
– Trình Thiếu tướng, những người còn nhà họ đã về từ hôm qua, những người này nhà cửa bọn VC đã đốt cháy rụi rồi, còn nhà đâu nữa mà về. Nghe tôi nói xong, ông im lặng, chẳng nói gì.

Sau khi thăm một số anh em cảnh sát bị thương đang nằm tại Bệnh viện Trung ương Huế, trên đường trở về lại BCH/CSQG, bỗng ông chợt nói với tôi:

– Tao đã có cách giúp họ, đi gặp Tỉnh Trưởng, xin thằng này một khu đất, mình làm nhà cho họ ở.

Tôi thật ngạc nhiên, chẳng nói gì, nhưng thầm nghĩ vật dụng đâu mà làm?

Nhân đi gặp ông Tỉnh Trưởng, tôi nghĩ đây là cơ hội tốt để Thiếu tướng Loan có thể can thiệp cho tôi với ông ta về việc một mình kiêm hai chức vụ: Phó Ty CSĐB và Quận Trưởng Quận III, Thị xã Huế:

– Thiếu tướng, em kiêm hai chức vụ, trọng trách quá nặng, sợ không chu toàn nổi, bây giờ tình hình quân sự đã tạm ổn, Thiếu tướng nói với ông ta cho em giao lại chức vụ Quận Trưởng Quận 3 để về làm công việc tình báo bên CSĐB.

– Đúng rồi, đó là điều tao muốn nói với ông Tỉnh Trưởng, mày trả lại cho ông ta, còn nhiều việc phải làm.

Ba hôm sau tôi bàn giao Quận III Thị xã Huế cho một Thiếu Tá, và trở lại thuần túy lo công việc của ngành CSĐB.


Trại tỵ nạn Tình thương cho đồng bào Huế

Theo yêu cầu của Thiếu tướng Loan, ông Tỉnh Trưở ng đã cấp một khu đất rộng và dài tại đường Hòa Bình, thuộc Quận I thành nội Huế. Khu đất rộng mênh mông này nằm sát Tử Cấm Thành của Hoàng Cung.

Cầu không vận của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã được thiết lập giữa Sài Gòn-Huế, nhiều tấn hàng vật liệu xây cất như tôn, xi măng đã được chở ra Huế.

Với hơn 100 nhân viên cảnh sát do tôi tuyển chọn, và khoảng 200 đồng bào tình nguyện, như vậy là 300 nhân công, lọai có tay nghề và lọai tay mơ, do ông cai thầu là Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan tức “Anh Sáu Lèo” chỉ huy, và phụ tá cai thầu là Trung úy Liên Thành.

Chỉ trong 16 ngày chúng tôi hoàn tất khoảng 500 nhà mái lợp tôn, vách bằng đủ thứ có được, nhưng hầu hết là ván ép, như vậy có chỗ cho 500 gia đình trA ngụ tạm thời, không phân biệt họ là ai, gia đình quân đội, cảnh sát, Công chức, thường dân, những ai mất nhà mất cửa đều được mời vào trú ngụ.

Trong suốt 16 ngày xây cất, ngoại trừ những lúc phải giải quyết công việc khẩn cấp, hầu hết thì giờ Thiếu tướng Loan đều có mặt, ông cũng xắn tay áo, tay cầm búa cầm đinh, miệng la hét đốc thúc, y như một ông cai thầu thứ thiệt.

Có lần tôi cũng như ông, tay búa tay đinh cùng đám đệ tử đứng gần ông, nhìn dáng dấp của ông, tôi nín cười không được quay qua nói với đám đệ tử:

– Bọn bây nhìn Ông Tướng mình giống anh cai thầu quá phải không?

Cả bọn cùng cười bị ông bắt gặp, ông hỏi chúng tôi:

– Đ ... cụ chúng mày cười gì đó.


Tôi trả lời ông tỉnh bơ:

– Thì cười Thiếu tướng đó, trông ông giống y chang ông Cai thầu. Ông cũng cười, nụ cười thật hiền lành.
– Thôi làm việc đi, làm nhanh lên cho đồng bào có chỗ ở. Mười sáu ngày sau, ngày khánh thành khu Trại Tình Thương cho đồng bào tỵ nạn Huế, Thiếu tướng Loan đứng vòng tay ngay cửa chính nhìn đồng bào nhập trại với nụ cười thỏa nguyện, mọi người đi ngang trước mặt ông đều cất tiếng:

– Cám ơn Thiếu tướng,
– Cám ơn Ông Tướng,
– Cám ơn Ôn.

Và ông vẫn đứng vòng tay im lặng, nhìn họ bằng ánh mắt trìu mến.

Dân Huế chạy trốn cộng sản Tết Mậu Thân (1968)
Nguồn: Copyrig ht Time Inc.


Người dân Huế với trăm ngàn nỗi khổ đau và khốn cùng – đã nghiến răng, gồng mình chịu đựng suốt 26 ngày VC tàn sát thân nhân – đã chịu kinh hoàng, đã chịu đói, đã chịu lạnh, đã run rẩy trong những trại tỵ nạn. Thiếu tướng Loan đã tìm về với họ, về với Huế, thành phố đầy ắp những kỷ niệm thời niên thiếu của ông bằng một tấm lòng, một vòng tay mở rộng cứu giúp họ.

(Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment